Logo
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Mổ đẻ chủ động, hãy cẩn trọng!

Mổ đẻ khi chưa có chuyển dạ (mổ đẻ chủ động) ngày càng trở nên phổ biến, song phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, các chuyên gia về y tế cảnh báo, việc sinh mổ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả mẹ và bé.

Mổ đẻ chủ động, hãy cẩn trọng!

Trẻ suy hô hấp sau sinh mổ chủ động được điều trị tích cực tại Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương.

Tử vong sau sinh mổ chủ động

Việc chọn "giờ vàng" mổ lấy thai ngày càng gia tăng, thậm chí nhiều bậc phụ huynh lại lầm tưởng phương pháp này an toàn hơn sinh con theo quy luật tự nhiên, khiến trẻ đối mặt với nhiều nguy cơ nguy hiểm tới mạng sống. Đơn cử vừa qua, tại Bệnh viện Nhi Trung ương, chỉ trong chưa đầy một tuần, Trung tâm Sơ sinh của bệnh viện đã tiếp nhận 6 trẻ sinh mổ chủ động gặp các biến chứng nặng phải thở máy, có trẻ cần duy trì thuốc trợ tim... Đặc biệt, có hai trường hợp trẻ tổn thương phổi nặng, suy hô hấp, suy tuần hoàn.

Điển hình như trường hợp bé trai Đ.T.D (1 ngày tuổi, ở Thái Bình), con lần hai trong gia đình. Vì sinh bé thứ hai, nên lo lắng những biến chứng của vết mổ đẻ cũ, gia đình quyết định sinh mổ chủ động khi thai nhi được 37 tuần. Sau sinh, trẻ được hỗ trợ thở CPAP - thở áp lực dương liên tục qua mũi. Tuy nhiên, tình trạng suy hô hấp tiến triển, trẻ được đặt nội khí quản chuyển đến Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương. Bệnh nhi vào viện trong tình trạng tổn thương phổi nặng, suy tuần hoàn.

Ngay khi tiếp nhận, các bác sĩ Khoa Điều trị tích cực sơ sinh, Trung tâm Sơ sinh đã tiến hành hỗ trợ thở máy cho trẻ. Đồng thời, bệnh nhi được bơm surfatant vào phổi để hỗ trợ hô hấp, kết hợp với thuốc vận mạch, trợ tim liên tục. Sau 7 ngày điều trị, may mắn, tình trạng của Đ.T.D đã cải thiện và ổn định.

Trường hợp thứ hai không may mắn là bé trai 1 ngày tuổi ở Nam Định, đẻ mổ chủ động tại bệnh viện địa phương khi thai kỳ ở tuần thứ 36. Qua khai thác tiền sử, các bác sĩ cho biết do gia đình không nắm được những nguy cơ, biến chứng có thể xảy ra với cả mẹ và bé khi mổ chủ động, nên khi mẹ phải nằm theo dõi thai kỳ trong 1 tuần, gia đình đã quá lo lắng và mong muốn sinh mổ khi chưa có cơn chuyển dạ.

Trẻ sau sinh có suy hô hấp, tăng áp phổi nặng, được chuyển đến Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng tím tái, độ bão hòa oxi trong máu- SPO2 là 50%, suy tuần hoàn. Ngay lập tức, các bác sĩ tiến hành cho trẻ thở máy tần số cao, duy trì thuốc trợ tim, vận mạch, thuốc giãn mạch phổi. Mặc dù đã được hồi sức tích cực nhưng tình trạng bệnh nhi không cải thiện, trẻ tử vong sau 3 ngày nhập viện.

Nguy hiểm khi mổ đẻ chưa có dấu hiệu chuyển dạ

Theo Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Hồng Loan, Khoa Điều trị tích cực sơ sinh, Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương, sinh con qua đường âm đạo là phương pháp sinh lý và tốt nhất cho mẹ và thai nhi. Mổ lấy thai chỉ nên thực hiện trong trường hợp mẹ có bệnh lý và thai không cho phép đẻ đường âm đạo. Tuy nhiên trong những năm gần đây, xu hướng mổ đẻ chủ động do chọn ngày, giờ sinh đẹp trở nên phổ biến.

Theo đó, tỷ lệ mổ lấy thai ở nhiều nước trên thế giới cũng có xu hướng tăng nhanh trong vòng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tỷ lệ mổ lấy thai ở Mỹ năm 1996 là 21%, năm 2014 là 32,24%; Paraguay là 42%; Ecuador là 40%. Tại Việt Nam, tỷ lệ mổ lấy thai vẫn còn cao, khoảng 39,1%. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1985, tỷ lệ này chỉ nên từ 5-10% nhằm tránh các tai biến cho mẹ và con.

Trẻ được sinh ra do mổ đẻ chủ động có thể bị suy hô hấp với nhiều mức độ: Từ khó thở thoáng qua đến suy hô hấp nặng cần thở máy, thậm chí phải cần đến ECMO (tim phổi nhân tạo). Một số trường hợp nặng có thể tử vong. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mổ lấy thai chủ động khi không có chuyển dạ khiến nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp ở trẻ cao gấp 2,6 lần so với mổ đẻ có chuyển dạ và cao gấp 1,9 lần so với đẻ thường.

Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Hồng Loan cho biết: Trong thời kì bào thai, phổi bị dịch lấp đầy nên quá trình trao đổi khí phụ thuộc vào bánh rau. Khi bánh rau ngừng hoạt động chức năng, phổi phải đảm nhiệm vai trò này. Trong cuộc đẻ thường, tử cung liên tục co làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi khí của bánh rau gây ra tình trạng giảm oxy của thai nhi, do đó phế nang phải được thông khí và máu qua phổi được tăng cường.

Đồng thời, quá trình chuyển dạ của sản phụ kích thích tăng sản xuất adrenalin của thai nhi và tăng giải phóng hormone thyrotropin của bà mẹ. Cả hai quá trình này có tác dụng làm tế bào phổi giảm tiết dịch và bắt đầu hấp thu dịch phổi ở trong phế nang, là bước chuẩn bị để phổi bắt đầu thực hiện chức năng hô hấp. Ở trẻ đẻ mổ chủ động không có quá trình này, dẫn đến phổi trẻ khi sinh ra chứa nhiều dịch hơn, dễ bị mắc các vấn đề về hô hấp sau sinh.

Để tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra do mổ đẻ chủ động, các bậc phụ huynh không nên lựa chọn phương thức đẻ này khi không có chỉ định mổ đẻ bắt buộc. Các sản phụ nên trao đổi những lo lắng của mình với bác sĩ sản khoa để được hỗ trợ, chuẩn bị cho quá trình sinh an toàn và tốt nhất.

Theo các chuyên gia y tế, các sản phụ chỉ nên sinh mổ khi có chỉ định như: Ngôi thai bất thường, thai quá to (>4.000g), nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, nhau bong non, sa dây rốn, thai suy; sản phụ có khung chậu hẹp, có vết mổ cũ trên thân tử cung... Còn với trẻ siêu âm có cân nặng bình thường từ 2,8 - 3,5kg thì sinh thường là lựa chọn tốt nhất. Đối với trường hợp thai nhi nặng hơn 4kg và sức khỏe người mẹ không đảm bảo khả năng sinh thường thì bác sĩ sẽ khuyên sinh mổ để đảm bảo an toàn cho sản phụ và em bé.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết