Gia tăng trẻ nhập viện do sốt xuất huyết
Theo thông tin từ Bệnh viện Nhi Trung ương, từ đầu năm 2023 đến nay, Trung tâm Bệnh nhiệt đới của Bệnh viện đã tiếp nhận 120 trẻ mắc sốt xuất huyết, trong đó hơn 50 ca có dấu hiệu cảnh báo.
Một trong những bệnh nhi nặng nhất tính đến thời điểm này điều trị tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Nhi Trung ương) là bé trai V.H (8 tuổi, ở Hà Nội). Cách đây 4 năm, lần đầu tiên bé H mắc sốt xuất huyết. Ở lần mắc thứ hai này, H xuất hiện tình trạng sốt cao 39 - 40 độ C, không đáp ứng với thuốc hạ nhiệt, đau mỏi người, nôn nhiều, đau bụng, đau đầu, ăn uống kém, được gia đình đưa đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
Thạc sĩ Đỗ Thị Thuý Hậu (Điều dưỡng trưởng Trung tâm Bệnh nhiệt đới) chăm sóc bệnh nhi sốt xuất huyết. |
Thời điểm nhập viện, trẻ sốt cao liên tục, có chấm sốt xuất huyết vùng mặt, nhưng sau đó xuất hiện mạch nhanh, khó bắt, huyết áp tụt, tiểu cầu giảm, men gan tăng… Các bác sĩ đã tiến hành điều trị cho trẻ theo phác đồ của Bộ Y tế về sốt xuất huyết Dengue nặng. Sau 10 ngày điều trị, bệnh nhi được ra viện.
Hay trường hợp bệnh nhi T.P (11 tuổi, ở Hà Nội) cũng nhập viện vì sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo. Trước đó, trẻ cũng đã từng bị sốt xuất huyết. Trẻ nhập viện ngày thứ 5 của bệnh với các biểu hiện: Đau bụng, sốt từng cơn kèm nôn nhiều lần, ăn uống kém; đã điều trị tại bệnh viện gần nhà nhưng không đỡ... nên gia đình đã đưa vào Bệnh viện Nhi Trung ương thăm khám và điều trị tiếp.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Văn Lâm, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Nhi Trung ương), sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính do một loại siêu vi trùng có tên là Dengue gây ra. Đây là căn bệnh có thể lây truyền từ người này sang người khác khi bị muỗi vằn mang mầm bệnh đốt. Vi rút gây bệnh sốt xuất huyết có 4 loại tương ứng với 4 tuýp huyết thanh là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Trẻ em mắc sốt xuất huyết thường có biểu hiện đa dạng khác nhau. Bệnh khởi phát khá đột ngột và diễn biến qua 3 giai đoạn: Giai đoạn sốt, giai đoạn nguy hiểm và giai đoạn phục hồi.
Ở giai đoạn đầu của bệnh, trẻ bị sốt cao đột ngột, liên tục. Sau giai đoạn sốt, trẻ tiến vào giai đoạn nguy hiểm, thường rơi vào khoảng ngày thứ 3 - 7 sau khi mắc bệnh. Biểu hiện sốt xuất huyết ở trẻ vào giai đoạn này có thể còn sốt hoặc đã thuyên giảm, trẻ bị thoát huyết tương.
“Nếu tình trạng thoát huyết tương nặng sẽ dẫn đến sốc với các biểu hiện dễ nhận thấy như: Vật vã, bứt rứt, lờ đờ, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh nhỏ, tiểu ít, tụt huyết áp hoặc không thể đo được huyết áp. Đặc biệt, trẻ bị xuất huyết dưới da hoặc xuất hiện các mảng bầm tím, xuất huyết niêm mạc như chảy máu mũi, chảy máu chân răng, tiểu ra máu…”, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Văn Lâm lưu ý.
Sau giai đoạn nguy hiểm khoảng 48 - 72 giờ là giai đoạn phục hồi. Trẻ hết sốt, tình trạng cải thiện nhiều, biểu hiện thèm ăn, huyết áp ổn định hơn và tiểu nhiều hơn. Khi xét nghiệm máu thấy số lượng bạch cầu tăng lên nhanh, số lượng tiểu cầu dần trở về mức bình thường.
Theo các chuyên gia y tế, khi trẻ bị sốt xuất huyết có 5 việc tuyệt đối không nên làm. Cụ thể là: Không cho trẻ uống các loại nước có ga, nước có màu đỏ hoặc màu nâu; tránh thức ăn cay, thức ăn có màu đỏ hoặc màu nâu, thức ăn quá nóng hay quá lạnh; tuyệt đối không dùng nhóm thuốc hạ sốt Ibuprofen hoặc aspirin để hạ sốt cho trẻ vì thuốc này khiến tình trạng chảy máu trầm trọng lên, có thể gây xuất huyết dạ dày dữ dội, nguy hiểm đến tính mạng; không tự ý ra hiệu thuốc mua kháng sinh cho con dùng vì bệnh này do vi rút Dengue gây ra. Dùng kháng sinh không những không hiệu quả mà còn làm nặng thêm tình trạng gan, thận; tuyệt đối không đưa trẻ đi truyền dịch ở những cơ sở y tế không đảm bảo, các phòng khám tư nhân không đủ điều kiện làm thủ thuật.
Thạc sĩ Đỗ Thị Thúy Hậu (Điều dưỡng trưởng Trung tâm Bệnh nhiệt đới) đưa ra khuyến cáo, khi trẻ mắc sốt xuất huyết, nếu phát hiện thấy có các biểu hiện sau các bậc phụ huynh và người nhà cần đưa đến cơ sở y tế gần nhất, đó là: Trẻ vật vã, lờ đờ, đau bụng liên tục nhiều vùng gan; trẻ buồn nôn và nôn trên 3 lần/1giờ hoặc trên 4 lần/1giờ; xuất huyết niêm mạc, chảy máu chân răng, tiểu cầu giảm nhanh; chảy máu chân răng, chảy máu mũi, hành kinh sớm và kéo dài (đối với trẻ gái); tiểu ít, đi ngoài phân đen.