Kinh doanh sa sút, nhiều doanh nghiệp cắt giảm việc làm
Việc cắt giảm lao động trong các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là vì lý do kinh tế, khó khăn ở việc tìm kiếm, phát triển thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp gặp khó khăn tập trung vào doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo và ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến gỗ…
Thông tin này được nêu trong báo cáo về tình hình lao động mất việc trước phiên chất vấn tại Kỳ họp thứ Năm, Quốc hội khóa XV của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) Đào Ngọc Dung.
Trên 509 ngàn lao động bị ảnh hưởng việc làm
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung cho biết, trong những tháng đầu năm 2023, thị trường lao động của các nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực. Theo báo cáo xu hướng triển vọng việc làm và xã hội thế giới 2023 của Tổ chức Lao động quốc tế, thì năm 2023 hầu hết các quốc gia sẽ không thể phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch, việc làm toàn cầu được dự báo chỉ tăng 1%, giảm đáng kể so với tốc độ tăng việc làm 2,3% năm 2022.
Dệt may là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi làn sóng cắt giảm lao động. |
Tại Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2023 có chỉ số phát triển kinh tế không được thuận lợi nhưng thị trường lao động vẫn có sự phát triển nhẹ là nhờ sự tăng trưởng ở ngành thương mại - dịch vụ (ngành sử dụng nhiều lao động nhất, 4 tháng đầu năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,8%); tính linh hoạt của người lao động về việc làm cao, lao động làm việc trong khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn (đặc tính về lao động việc làm Việt Nam với 64,6% lao động có việc làm phi chính thức). Tuy nhiên, diễn biến cuối tháng 4 và tháng 5 về sản xuất kinh doanh kéo theo vấn đề lao động, việc làm có diễn biến khó khăn hơn.
Theo đó, những tháng đầu năm 2023, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm lao động là hơn 8.600 doanh nghiệp (chiếm 1% tổng số doanh nghiệp), trong đó, 27,4% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 72,18% doanh nghiệp ngoài nhà nước; 0,39% doanh nghiệp nhà nước. Xét theo vùng, có 66,75% doanh nghiệp thuộc vùng Đông Nam Bộ; 12,4% doanh nghiệp thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng; 7,75% doanh nghiệp thuộc vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; còn lại rải rác ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
Doanh nghiệp gặp khó khăn là những doanh nghiệp thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử…Những tháng đầu năm, số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm là 509.903 người (khoảng 3,4% tổng số lao động trong doanh nghiệp), trong đó, số lao động thôi việc, mất việc làm là 279.409 người (chiếm 54,79% lao động bị ảnh hưởng).
Nhóm lao động ngành dệt may bị ảnh hưởng lớn nhất với hơn 68.700 người, da giày 31.653 người, sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 45.075 người. Số lao động thôi việc, mất việc tập trung ở các tỉnh có khu công nghiệp, khu kinh tế lớn như Bình Dương (71.590 người), Đồng Nai (32.450 người), thành phố Hồ Chí Minh (44.890 người), Bắc Giang (27.500 người), Bắc Ninh (13.990 người), Hải Dương (16.020 người), Hà Nội (46.860 người).
Số lao động giảm giờ làm là 195.039 người (chiếm 38,25% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 66.641 người, ngành da giày là 66.133 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 24.848 người, ngành chế biến thủy, hải sản là 5.939 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 5.450 người. Ngoài ra, có hơn 17.000 lao động bị ngừng việc, nghỉ việc không lương (chiếm 3,33% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 4.938 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 2.243 người, ngành chế biến thủy, hải sản là 3.138 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 2.232 người. Số lao động tạm hoãn hợp đồng lao động là 8.346 người (chiếm 1,64% lao động bị ảnh hưởng), trong đó nhiều nhất là lao động ngành dệt may là 3.826 người.
Nhóm lao động chưa qua đào tạo (chưa có bằng cấp, chứng chỉ) bị thôi việc, mất việc nhiều nhất với tỷ lệ 68%. Đáng chú ý, lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thôi việc, mất việc nhiều nhất (49% số lao động nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp là từ các khu công nghiệp, khu chế xuất).
Đẩy mạnh giải pháp tháo gỡ khó khăn
Nói về nguyên nhân của việc cắt giảm lao động, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung cho biết, các doanh nghiệp thiếu đơn hàng do kinh tế các nước gặp khó khăn, lạm phát cao, chính sách tiền tệ thắt chặt nên sức mua sụt giảm, đặc biệt là nhu cầu về các mặt hàng thời trang quần áo, giày dép, thiết bị điện tử cá nhân,… khiến nhiều doanh nghiệp trong nước gặp tình trạng hàng tồn kho nhiều không xuất được, không có đơn hàng mới.
Cùng với đó, chi phí sản xuất tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh được. Một số thị trường lớn của Việt Nam đặt ra yêu cầu mới về tiêu chuẩn hàng hóa và có sự thay đổi quan điểm thị hiếu của người tiêu dùng nên các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn để tổ chức, sắp xếp lại hoạt động sản xuất, trong khi đó sau thời gian ứng phó với đại dịch Covid-19 nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp không còn đủ để thực hiện.
“Đánh giá chung, việc cắt giảm lao động trong các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là vì lý do kinh tế, khó khăn ở việc tìm kiếm, phát triển thị trường nước ngoài, doanh nghiệp gặp khó khăn tập trung vào doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất và lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến gỗ”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhìn nhận.
Từ thực tế trên, nêu các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tạo việc làm cho người lao động hiện nay, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thông tin, Bộ LĐTBXH sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp. Thực hiện các giải pháp để thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Các giải pháp cần tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, tìm kiếm đơn hàng mới, giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc giảm lãi suất vay, hỗ trợ giảm thuế, giảm các khoản phí, lệ phí phải đóng...Bên cạnh đó, ngành cũng nâng cao vai trò của chính sách bảo hiểm thất nghiệp, trong đó đẩy mạnh tư vấn, giới thiệu việc làm để người lao động quay trở lại thị trường lao động…