Cùng đó, kết hợp hài hòa giữa phát triển nghề nuôi biển với dịch vụ, du lịch sinh thái biển; giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển, hướng đến là địa phương phát triển mạnh về kinh tế biển.
Phú Yên phấn đấu đến năm 2030 chuyển đổi tối thiểu 50% lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch trong các đầm, vịnh sang lồng HDPE. Ảnh: Phạm Cường-TTXVN
Tỉnh Phú Yên có đường bờ biển dài 189 km với nhiều vũng, vịnh, đầm phá. Theo ông Lê Tấn Hổ, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, tỉnh đã ban hành kế hoạch 126/KH-UBND về nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2025, tỉnh tập trung nuôi biển đối với các loại cá, tôm hùm, nhuyễn thể, rong tảo biển và các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Theo đó, phát triển vùng nuôi trên bờ tại hạ lưu sông Bàn Thạch, đầm Ô Loan, vịnh Xuân Đài, đầm Cù Mông; nuôi nghệ cao tại Hạ lưu Sông Bàn Thạch 120ha, vùng nuôi Xuân Bình 100ha, vùng nuôi xã Xuân Lộc 100ha. Vùng nuôi trên biển tập trung tại vùng nước vịnh Xuân Đài, đầm Cù Mông. Nuôi biển mở tập trung tại xã Xuân Cảnh, Xuân Phương, (thị xã Sông Cầu), xã An Ninh Đông, An Hòa Hải, An Chấn, (huyện Tuy An).
Phú Yên phấn đấu nuôi trồng thủy sản trên biển đạt khoảng 2.650 ha vào năm 2025. Sản lượng nuôi đạt khoảng 7.000 tấn; trong đó, ổn định sản lượng nuôi đầm vịnh khoảng 2.000-2.500 tấn, tôm hùm từ 1.500 -2.000 tấn, cá biển các loại khoảng 500 tấn; vùng biển mở, ven bờ và xa bờ khoảng từ 4.500-5.000 tấn, chủ yếu cá biển khoảng từ 3.500-4.000 tấn; rong, tảo biển và các đối tượng khác khoảng 1.000 tấn.
Bên cạnh đó, tỉnh khuyến khích chuyển đổi vật liệu lồng từ thủ công sang HDPE tối thiểu 30% số lồng nuôi theo quy hoạch tại vùng nuôi đầm, vịnh; vùng biển mở sử dụng 100% 3 hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu HDPE, vật liệu mới phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết. Giá trị nuôi biển của Phú Yên đến năm 2025 đạt 2.400 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu 100 triệu USD.
Đến năm 2030, Phú Yên mở rộng thêm vùng biển mở xa bờ trên 6 hải lý thuộc vùng biển 4 huyện thị ven biển; diện tích mặt nước nuôi biển 3.650ha; sản lượng đạt khoảng 30.000 tấn. Cùng đó, sử dụng 100% hệ thống lồng, bè, nhà giàn nuôi có kết cấu và vật liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết (sóng to, gió lớn, bão). Tỉnh cũng chuyển đổi tối thiểu 50% lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch trong các đầm, vịnh sang lồng HDPE, sử dụng tối thiểu 30% thức ăn công nghiệp trong nuôi tôm hùm trên biển đến năm 2030.
Cùng với các ngành kinh tế khác, tầm nhìn đến năm 2040 tỉnh Phú Yên phát triển ngành nuôi biển đạt trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại và trở thành ngành hàng chủ lực trong ngành nông nghiệp tỉnh Phú Yên. Từ đó, góp phần thực hiện thành công mục tiêu tái cơ cấu thủy sản nói riêng và nông nghiệp nói chung. Tất cả lồng bè được sử dụng vật liệu mới có kết cấu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết, sử dụng 100% thức ăn công nghiệp trong nuôi biển. Sản lượng nuôi biển đạt khoảng 50.000 tấn/năm. Giá trị nuôi biển đạt 5.000 tỷ đồng với kim ngạch xuất khẩu 200 triệu USD.
Để thực hiện hiệu quả Đề án, tỉnh Phú Yên tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chính sách hiện có hiệu quả, Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa; Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản. Phú Yên tổ chức triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật có liên quan đến nuôi biển.
Đồng thời, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, vật liệu làm lồng, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm; trong đó, doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi sản xuất. Ngoài ra, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các công nghệ mới vào nuôi biển nhằm tạo sản phẩm giá trị gia tăng và giảm thiểu phát thải các khí nhà kính, bảo vệ môi trường…
Phạm Cường